https://tapchinghiencuuyhoc.vn/index.php/tcncyh/issue/feedTạp chí Nghiên cứu Y học2024-06-20T02:08:33+00:00Open Journal Systemshttps://tapchinghiencuuyhoc.vn/index.php/tcncyh/article/view/23481. Giá trị của định lượng tín hiệu MRI 3.0T trong chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt2024-04-04T01:25:28+00:00Nguyễn Đình Minhminhdr24@gmail.comVũ Ngọc Dươngtapchinghiencuuyhoc@hmu.edu.vn<p>Nghiên cứu mô tả cắt ngang dựa trên định lượng tín hiệu cộng hưởng từ 3 tesla (MRI 3.0T) để phân biệt ung thư tuyến tiền liệt (UTTTL) và và các tổn thương lành tính. Nghiên cứu trên 84 bệnh nhân có PSA tăng > 4 ng/ml được chụp MRI 3.0 và sinh thiết tuyền tiền liệt qua siêu âm trực tràng có kết quả giải phẫu bệnh, từ tháng 1/2023 - 10/2023 tại Bệnh viện Việt Đức. Kết quả giải phẩu bệnh được xác định là UTTTL khi Gleason ≥ 6 điểm. Vị trí ung thư tuyến tiền liệt được xác định theo phân vùng giải phẫu tương ứng với 2 khu vực trên MRI 3.0T (gồm ngoại vi và vùng trung tâm). Kết quả nghiên cứu cho thấy tuổi trung bình bệnh nhân là 70,1 ± 7,65 tuổi (41 đến 82 tuổi), nhóm ung thư tuyến tiền liệt là 72,6 ± 6,6 tuổi và không ung thư tuyến tiền liệt là 67,7 ± 8,2 tuổi (p < 0,01). Xem xét tổn thương ở cả vùng ngoại vi và vùng trung tâm, các chỉ số tín hiệu tổn thương của ung thư tuyến tiền liệt là luôn thấp hơn nhóm lành tính trên T2W (T2W mean), ADC (ADCmean và ADCmin), trong khi chỉ số trên DWI (DWImean và DWImax) là cao hơn (p < 0,01). Mặt khác, đường cong ROC thể hiện khả năng chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt cho thấy chỉ số ADCmean là chính xác nhất với diện tích dưới đường cong (AUC) là 0,948, độ nhạy (Sn) 92,3% và độ đặc hiệu (Sp) 86,7% ở vùng ngoại vi và AUC 0,991 ở vùng trung tâm với Sn 97,4% và Sn 86,7%. Bên cạnh đó, các chỉ số ADCmin, T2mean, DWImean, DWImax cũng có giá trị cao trong chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt. </p>2024-06-20T00:00:00+00:00Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Y họchttps://tapchinghiencuuyhoc.vn/index.php/tcncyh/article/view/23592. Mức độ đề kháng và tỉ lệ vi khuẩn dai dẳng với colistin của các chủng Klebsiella pneumoniae2024-04-20T09:41:21+00:00Nguyễn Khắc Tiệptiepnk@hup.edu.vnThân Thị Dung NhiDungnhi.hmu@gmail.comPhạm Hồng Nhunghongnhung@hmu.edu.vn<p>247 chủng <em>Klebsiella pneumoniae</em> phân lập từ Trung tâm Hồi sức tích cực (HSTC) - Bệnh viện Bạch Mai năm 2019 - 2021 được xác định giá trị nồng độ ức chế tối thiểu (MIC) colistin bằng phương pháp vi pha loãng. Kết quả cho thấy tỉ lệ vi khuẩn kháng với colistin là 29,1%. Lựa chọn các chủng không kháng với colistin (có giá trị MIC ≤ 2µg/ml) thực hiện đánh giá tỉ lệ vi khuẩn dai dẳng với colistin sau 5 giờ và 24 giờ tiếp xúc kháng sinh. Tỉ lệ vi khuẩn dai dẳng với colistin sau 5 giờ và 24 giờ lần lượt là 23% và 19% (giá trị trung bình). Tỉ lệ vi khuẩn dai dẳng với colistin phân bố không đều và không tăng theo MIC.</p>2024-06-20T00:00:00+00:00Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Y họchttps://tapchinghiencuuyhoc.vn/index.php/tcncyh/article/view/23633. Phân tích một số chỉ số cận lâm sàng ở bệnh nhân COVID-19 nặng, nguy kịch được nhập viện điều trị lần đầu tại Bệnh viện Điều trị người bệnh COVID -192024-04-21T03:21:14+00:00Nguyễn Đức Tuấnductuannguyen@hmu.edu.vnNguyễn Thị Ngọc Lanngoclannguyen@hmu.edu.vnNguyễn Thị Hoài Thunththu@dhktyduocdn.edu.vn<p>Nghiên cứu được thực hiện nhằm khảo sát đặc điểm một số chỉ số cận lâm sàng của bệnh nhân COVID-19 tại thời điểm nhập Khoa hồi sức tích cực và mối liên quan giữa chúng với tình trạng nặng của bệnh nhân. Nghiên cứu là nghiên cứu mô tả cắt ngang hồi cứu trên 384 bệnh nhân mắc COVID-19 mức độ nặng, nguy kịch được theo dõi, điều trị tại Bệnh viện điều trị người bệnh COVID-19. Kết quả nghiên cứu cho thấy các chỉ số D-Dimer > 1000 ng/mL, Ure > 10 mmol/L, Creatinin > 120 µmol/L và Albumin < 30 g/L có liên quan đến nguy cơ thở máy xâm nhập cũng như nguy cơ tử vong. Chỉ số PLT < 150 G/L có liên quan đến nguy cơ tử vong trong khi chỉ số WBC > 10 G/L có liên quan đến nguy cơ thở máy xâm nhập. Sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. </p>2024-06-20T00:00:00+00:00Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Y họchttps://tapchinghiencuuyhoc.vn/index.php/tcncyh/article/view/23884. Mức độ nhạy cảm với kháng sinh mới imipenem/relebactam của các chủng Klebsiella pneumoniae và Pseudomonas aeruginosa kháng carbapenem2024-05-07T10:09:05+00:00Phạm Hồng Nhunghongnhung@hmu.edu.vnNguyễn Thị Vân Anhnguyenvanh01998@gmail.com<p>38 chủng <em>Klebsiella pneumoniae</em> sinh carbapenemase nhóm A và 42 chủng<em> Pseudomonas aeruginosa</em> sinh carbapenemase nhóm A hoặc đề kháng carbapenem theo cơ chế không sinh carbapenemase phân lập tại Bệnh viện Bạch Mai năm 2024 được xác định giá trị nồng độ ức chế tối thiểu (MIC) imipenem/relebactam bằng phương pháp Etest. Kết quả cho thấy mức độ nhạy cảm với imipenem/relebactam của các chủng <em>K. pneumoniae</em> là 92,1% (MIC<sub>50</sub> = MIC<sub>90</sub> = 0,5 µg/ml), của các chủng <em>P. aeruginosa</em> là 21,4% (MIC<sub>50</sub> = MIC<sub>90</sub> > 32 µg/ml). Imipenem/relebactam là một lựa chọn mới cho điều trị các nhiễm trùng do <em>K. pneumoniae</em> và <em>P. aeruginosa</em> kháng carbapenem nhưng nên sử dụng sau khi có kết quả kháng sinh đồ. </p>2024-06-20T00:00:00+00:00Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Y họchttps://tapchinghiencuuyhoc.vn/index.php/tcncyh/article/view/23925. Dấu ấn sinh học mới trong phát hiện sớm biến chứng thận do đái tháo đường2024-05-02T01:45:37+00:00Hồ Thị Bảo Châuhtb.chau@hutech.edu.vn<p>Gánh nặng toàn cầu về bệnh thận đái tháo đường ngày càng gia tăng và đây vẫn là nguyên nhân chính gây ra bệnh thận giai đoạn cuối. Mặc dù, có những tiến bộ lớn trong điều trị bệnh thận và đái tháo đường, các công cụ chẩn đoán lâm sàng cổ điển trong bệnh thận đái tháo đường vẫn chưa đầy đủ và toàn diện. Microalbumin niệu là dấu hiệu sớm của bệnh thận đái tháo đường và được sử dụng như một xét nghiệm thường quy trong sàng lọc, nhưng tổn thương thận vẫn có thể xảy ra ngay cả khi không có sự xuất hiện của microalbumin niệu. Các hạn chế về giá trị chẩn đoán và tiên lượng của microalbumin niệu chứng tỏ sự cần thiết của các dấu ấn sinh học mới có thể thay thế và có ý nghĩa lâm sàng, cho phép điều trị bệnh đái tháo đường có mục tiêu và hiệu quả hơn, nhằm giảm gánh nặng của bệnh thận do đái tháo đường. Do đó, tổng quan này tập trung vào các dấu ấn sinh học giúp phát hiện sớm, đặc biệt với hy vọng mở rộng cửa sổ chẩn đoán để xác định bệnh nhân ở các giai đoạn tiến triển bệnh thận do đái tháo đường khác nhau.</p>2024-06-20T00:00:00+00:00Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Y họchttps://tapchinghiencuuyhoc.vn/index.php/tcncyh/article/view/24016. Nhiễm trùng do các trực khuẩn Gram âm thường gặp tại Trung tâm Hồi sức tích cực, Bệnh viện Bạch Mai năm 20232024-05-04T08:22:38+00:00Phạm Hồng Nhunghongnhung@hmu.edu.vnNguyễn Tuấn Linhnguyentuanlinh92@gmail.com<p>Nhiễm trùng do các trực khuẩn Gram âm đa kháng tại Trung tâm Hồi sức tích cực là vấn đề đáng quan ngại. Nghiên cứu thực hiện nhằm xác định vai trò của căn nguyên trực khuẩn Gram âm gây bệnh và mức độ nhạy cảm với kháng sinh của chúng trong năm 2023.<em> A. baumannii</em>, <em>K. pneumoniae</em> và<em> P. aeruginosa</em> là các căn nguyên gây bệnh hàng đầu, chiếm 49,7% tổng số căn nguyên phân lập được. Các trực khuẩn này đều có mức độ nhạy cảm với các kháng sinh thấp kể cả với kháng sinh mới như ceftazidime/avibactam. Nghiên cứu cung cấp dữ liệu giúp các bác sĩ lâm sàng có thể lựa chọn được kháng sinh điều trị theo kinh nghiệm phù hợp cho các nhiễm trùng do một số nhóm trực khuẩn Gram âm có nguy cơ kháng carbapenem khi chưa có kết quả kháng sinh đồ.</p>2024-06-20T00:00:00+00:00Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Y họchttps://tapchinghiencuuyhoc.vn/index.php/tcncyh/article/view/24067. Đặc điểm lâm sàng, vi sinh của nhiễm khuẩn huyết do Staphylococcus aureus ở trẻ em tại Bệnh viện Nhi Trung ương2024-05-03T02:13:54+00:00Nguyễn Thị Hànguyenthiha_nhi@hmu.edu.vnTạ Anh Tuấndrtuanpicu@gmail.comPhạm Hồng Nhunghongnhung@hmu.edu.vn<p>Nhiễm khuẩn huyết do <em>Staphylococcus aureus</em> là một trong các bệnh nhiễm trùng thường gặp và quan trọng ở trẻ em. Panton -Valentine Leukocidin (PVL) là độc tố của <em>Staphylococcus aureus</em> có khả năng gây hoại tử mô và phá huỷ bạch cầu, đóng vai trò quan trọng trong cơ chế bệnh sinh và làm giảm đáng kể hiệu quả điều trị nhiễm khuẩn huyết ở trẻ em. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên 145 trẻ được chẩn đoán nhiễm khuẩn huyết do <em>Staphylococcus aureus</em> tại Bệnh viện Nhi Trung ương từ tháng 09/2022 tới tháng 09/2023 bằng phương pháp mô tả tiến cứu loạt ca bệnh với mục tiêu: mô tả đặc điểm lâm sàng, kháng sinh đồ và xác định tỷ lệ chủng <em>Staphylococcus aureus</em> mang gen <em>pvl</em> gây nhiễm khuẩn huyết trẻ em. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ chủng <em>Staphylococcus aureus</em> mang gen <em>pvl</em> gây nhiễm khuẩn huyết trẻ em rất cao (85,5%), trong đó tỷ lệ chủng MRSA mang gen <em>pvl</em> cao hơn so với MSSA. Chúng tôi ghi nhận không có sự khác biệt giữa đặc điểm lâm sàng của nhiễm khuẩn huyết do MRSA và MSSA. Tất cả các chủng<em> Staphylococcus aureus</em> gây nhiễm khuẩn huyết trong nghiên cứu đều nhạy cảm với vancomycin.</p>2024-06-20T00:00:00+00:00Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Y họchttps://tapchinghiencuuyhoc.vn/index.php/tcncyh/article/view/24088. Mức độ nhạy cảm với kháng sinh và kiểu gene carbapenemase của các chủng Pseudomonas aeruginosa phân lập tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội, 2019 - 20222024-05-03T02:10:17+00:00Nguyễn Thị Ánhnguyenthianhhmu@gmail.comVũ Ngọc Hiếuvungochieu@hmu.edu.vnTrần Thị Tuyếttuyetan2110@gmail.comPhạm Hồng Nhunghongnhung@hmu.edu.vn<p>734 chủng <em>Pseudomonas aeruginosa</em> phân lập tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội năm 2019 - 2022 được làm kháng sinh đồ bằng hệ thống tự động Vitek2 compact. 143 chủng kháng carbapenem được xác định 5 kiểu gene mã hóa carbapenemase thường gặp (<em>bla<sub>KPC</sub>, bla<sub>NDM,</sub> bla<sub>VIM</sub>, bla<sub>IMP</sub>, bla<sub>OXA-48</sub></em>) bằng kỹ thuật PCR. Kết quả cho thấy các chủng P. aeruginosa có mức độ nhạy cảm trung bình (40 - 70%) với các kháng sinh thử nghiệm. 71% các chủng P. aeruginosa kháng carbapenem mang các gene mã hóa cho carbapenemase nhóm B (<em>bla<sub>NDM</sub> và bla<sub>IMP</sub></em>). Piperacillin/tazobactam và amikacin có hiệu quả cao nhất trên các chủng kháng carbapenem. Dữ liệu nghiên cứu cung cấp cơ sở cho các bác sĩ lâm sàng trong việc lựa chọn kháng sinh điều trị theo kinh nghiệm cho các nhiễm trùng do <em>P. aeruginosa</em> khi chưa có kết quả kháng sinh đồ.</p>2024-06-20T00:00:00+00:00Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Y họchttps://tapchinghiencuuyhoc.vn/index.php/tcncyh/article/view/24369. Mức độ nhạy cảm kháng sinh của một số loài vi khuẩn gây nhiễm trùng huyết thường gặp phân lập tại Bệnh viện Bạch Mai năm 20232024-05-16T01:32:56+00:00Phạm Hồng Nhunghongnhung@hmu.edu.vnMai Thị Lan Hươngdr.lanhuong@yahoo.com<p>Nhiễm trùng huyết là một trong những nhiễm trùng nặng, nguy hiểm đến tính mạng. Các tác nhân gây bệnh rất đa dạng và có khả năng thay đổi đặc tính đề kháng theo thời gian. Nghiên cứu thực hiện nhằm xác định tác nhân gây nhiễm trùng huyết thường gặp và mức độ nhạy cảm với kháng sinh của các tác nhân phân lập được tại Bệnh viện Bạch Mai năm 2023. Trong 2993 chủng gây bệnh phân lập được, <em>E. coli</em> (18,1%), S. aureus (17,0%), <em>K. pneumoniae</em> (15,8%), <em>Acinetobacter</em> spp. (9,6%), <em>Enterococcus</em> spp. (6,4%) và <em>P. aeruginosa</em> (3,6%) là các tác nhân gây bệnh thường gặp nhất. Các chủng <em>E. coli</em> còn nhạy cảm cao với carbapenem, ceftazidime/avibactam và amikacin (> 88%). Các chủng<em> K. pneumoniae</em> và <em>P. aeruginosa</em> chỉ còn nhạy cảm trung bình với các kháng sinh carbapenem, ceftazidime/avibactam và amikacin (30 - 60%). Các chủng <em>K. aerogenes</em> đề kháng cao với carbapenem (> 88%), chỉ còn nhạy cảm cao nhất với ceftazidime/avibactam (73,8%). A. baumannii đã đề kháng cao với hầu hết các nhóm kháng sinh (hầu hết > 80%). Tỷ lệ<em> S. aureus</em> đề kháng methicillin là 73,3%. <em>Streptoccoccus viridans</em> đề kháng với penicillin và ceftriaxone với tỷ lệ là 22,6% và 9,4%. Nhìn chung, các cầu khuẩn Gram dương đều còn nhạy cảm cao với vancomycin (81,6 - 100%). Dữ liệu nghiên cứu góp phần cung cơ sở cho các bác sĩ lâm sàng trong việc lựa chọn kháng sinh điều trị theo kinh nghiệm cho các nhiễm trùng huyết khi chưa có kết quả kháng sinh đồ.</p>2024-06-20T00:00:00+00:00Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Y họchttps://tapchinghiencuuyhoc.vn/index.php/tcncyh/article/view/234210. Báo cáo ca lâm sàng tổn thương não cấp sau chụp động mạch vành qua da2024-04-01T03:31:28+00:00Hoàng Văndongtran.cardiologist@gmail.com<p style="font-weight: 400;">Trong bài cáo cáo ca lâm sàng này, chúng tôi mô tả một trường hợp có biến chứng thần kinh ngay sau thủ thuật chụp động mạch vành qua da. Do chưa đủ bằng chứng rõ ràng, chúng tôi không thể đưa ra chẩn đoán xác định nguyên nhân của biến chứng thần kinh trong trường hợp này. Chúng tôi kết luận rằng các biến chứng thần kinh sau thủ thuật can thiệp tim mạch có thể rất nghiêm trọng và khó khăn trong việc xác định nguyên nhân, đồng thời, theo dõi diễn biến bệnh dựa trên các phương tiện chẩn đoán hình ảnh là cần thiết để chẩn đoán và đánh giá tiến triển của tổn thương.</p>2024-06-20T00:00:00+00:00Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Y họchttps://tapchinghiencuuyhoc.vn/index.php/tcncyh/article/view/235211. Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của răng cối sữa ở trẻ em từ 4 - 8 tuổi có chỉ định phục hồi thân răng bằng chụp Bioflx tại Bệnh viện Răng Hàm Mặt Thành phố Hồ Chí Minh2024-03-27T04:40:43+00:00Bùi Trung Tíntrungtin.fr@gmail.comNguyễn Minh Tuấnnguyenminhtuan.dds@gmail.comVũ Quốc Vươngvuquocvuong.hmu@gmail.comVõ Trương Như Ngọcnhungoc@hmu.edu.vnNguyễn Thị Mai Phươngbacsimaiphuong@gmail.com<p>Một nghiên cứu cắt ngang được tiến hành trên 48 răng của 23 trẻ nhằm khảo sát các đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của những răng cối sữa ở trẻ em từ 4 - 8 tuổi có chỉ định phục hồi thân răng bằng chụp Bioflx tại Bệnh viện Răng Hàm Mặt Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 10/2023 đến tháng 3/2024. Tuổi trung bình của trẻ tham gia nghiên cứu là 6,39 ± 1,03 tuổi, đa số là nữ (chiếm 60,87%). Phần lớn là răng cối sữa thứ nhất (chiếm 58,33%) và phần nhiều ở hàm dưới (chiếm 52,08%). Theo phân loại “site và size”, lỗ sâu có vị trí chủ yếu ở site 2 (chiếm 67,57%) và kích thước lỗ sâu đa số là size 3 (chiếm 56,76%). Về mức độ tổn thương của sâu răng, có 77,08% răng chưa lộ tủy và 79,17% lỗ sâu chưa thông thương với buồng tủy trên hình ảnh X-quang. Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của răng cối sữa ở trẻ em từ 4 - 8 tuổi có chỉ định phục hồi rất đa dạng, thể hiện mức độ trầm trọng của các biến chứng sâu răng. </p>2024-06-20T00:00:00+00:00Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Y họchttps://tapchinghiencuuyhoc.vn/index.php/tcncyh/article/view/235312. Biến thể gen FSHR và kết quả kích thích nhẹ buồng trứng ở bệnh nhân Poseidon nhóm 3 và 42024-04-03T01:56:18+00:00Hoàng Thị Thanh ThủyThuythanhhoang1984@gmail.comTrịnh Thế Sơntrinhtheson@vmmu.edu.vnNguyễn Việt Quangquangnv986@gmail.comHồ Nguyệt Minhhonguyetminh421@gmail.comNguyễn Phương TrâmPhuongtram1750@gmail.comNgô Thị Ngânngothingan3112@gmail.comNguyễn Thúy Hằngthuyhangpk56@gmail.comHồ Sỹ Hùnghohungsy@gmail.com<p>Nghiên cứu can thiệp tiến cứu thực hiện trên 60 bệnh nhân đáp ứng buồng trứng kém Poseidon 3, 4, được kích thích buồng trứng nhẹ và xét nghiệm biến thể gen <em>FSHR</em> Rs6165, Rs6166 nhằm đánh giá kết quả kích thích buồng trứng. Kết quả cho thấy tần suất xuất hiện gen GG của biến thể Rs6165 là 10%, Rs6166 là 8,3%. Số noãn thu được trung bình 4,88 ± 2,86, số phôi ngày 3 trung bình 3,02 ± 2,32. Tỷ lệ noãn thu được/số nang thứ cấp (chỉ số FOI) của nhóm GG của biến thể Rs6165 là 0,51 ± 0,21, thấp hơn nhóm AA+AG là 0,77 ± 0,39 (p = 0,01), tương tự ở biến thể Rs6166, chỉ số FOI của nhóm GG là 0,41 ± 0,22 thấp hơn nhóm AA+AG là 0,76 ± 0,42 (p = 0,002). Tỷ lệ noãn trưởng thành MII/số nang thứ cấp thấp hơn ở nhóm GG ở cả 2 biến thể Rs6165 và Rs6166 lần lượt là (0,32 ± 0,18 so với 0,53 ± 0,37) (p = 0,02) và (0,32 ± 0,18 so với 0,52 ± 0,38) (p = 0,03). Như vậy, kiểu gen GG của biến thể gen Rs6165 và Rs6166 có xu hướng đáp ứng kém hơn khi kích thích buồng trứng nhẹ ở bệnh nhân Poseidon nhóm 3 và 4. </p>2024-06-20T00:00:00+00:00Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Y họchttps://tapchinghiencuuyhoc.vn/index.php/tcncyh/article/view/236013. Rối loạn tăng động giảm chú ý ở trẻ hen phế quản có ngưng thở tắc nghẽn khi ngủ2024-04-07T07:58:38+00:00Nguyễn Thị Thanh Maimaithanh@gmail.comNguyễn Thị Diệu Thúynguyendieuthuyhmu@gmail.comDương Quý Sỹdoctorkijuto@yahoo.comNguyễn Ngọc Quỳnh Lêdr.quynhle@gmail.com<p>Nghiên cứu cắt ngang trên 84 bệnh nhi được chẩn đoán hen phế quản có ngưng thở tắc nghẽn khi ngủ tại Khoa Miễn dịch - Dị ứng - Khớp, Bệnh viện Nhi Trung ương từ tháng 01/2021 đến tháng 12/2022 nhằm mô tả tần suất, đặc điểm lâm sàng và một số yếu tố liên quan đến rối loạn tăng động giảm chú ý ở nhóm trẻ trên. 36,9% trẻ hen đồng mắc ngưng thở tắc nghẽn khi ngủ được chẩn đoán xác định rối loạn tăng động giảm chú ý. Tăng động giảm chú ý thể giảm chú ý nổi trội thường gặp nhất trong nghiên cứu (26,2%). Không có mối liên quan giữa mức độ kiểm soát hen với tăng động giảm chú ý. Ngưng thở tắc nghẽn khi ngủ là yếu tố nguy cơ gây rối loạn tăng động giảm chú ý ở trẻ hen đồng mắc ngưng thở (OR = 4,83; 95%CI: 2,43 - 9,59).</p>2024-06-20T00:00:00+00:00Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Y họchttps://tapchinghiencuuyhoc.vn/index.php/tcncyh/article/view/236714. Điều trị sa sinh dục bằng cố định trục treo đáy chậu trước vào dải chậu lược hai bên qua phẫu thuật nội soi2024-04-23T01:36:01+00:00Trần Ngọc Dũngtranngocdung@hmu.edu.vnTrần Bảo Longtranbaolong@hmu.edu.vnLưu Quang Dũngluuquangdunghmu@gmail.comNguyễn Đức Phandr.phannguyen93@gmail.comNguyễn Thu VinhNguyenThuVinh86@gmail.comHoàng Đình Âuhoangdinhau@gmail.com<p>Nghiên cứu nhằm đánh giá kết quả ban đầu của phương pháp khâu treo và cố định trục treo đáy chậu vào dải chậu lược hai bên bằng phẫu thuật nội soi trong điều trị sa sinh dục. Trong thời gian 18 tháng, chúng tôi thực hiện kỹ thuật trên cho 32 bệnh nhân sa sinh dục độ 3, 4. Tỷ lệ tai biến và biến chứng thấp lần lượt 3,1% và 6,2%. Tỷ lệ tái phát 3,1%. Mức độ đau sau mổ phần lớn là trung bình và thấp lần lượt là 31,2% và 62,5%. Tất cả bệnh nhân hồi phục sớm với thời gian nằm viện ngắn trung bình là 4,5 ngày. Chất lượng cuộc sống thay đổi rõ sau mổ với hai thang điểm PFDI và PFIQ giảm lần lượt là 112,51 xuống 18,75 và 95,21 xuống 13,54. Kết quả ban đầu cho thấy đây là phương pháp an toàn và hiệu quả.</p>2024-06-20T00:00:00+00:00Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Y họchttps://tapchinghiencuuyhoc.vn/index.php/tcncyh/article/view/237215. Kết quả gần phẫu thuật nội soi cắt khối tá tụy theo hướng tiếp cận từ phía bên trái động mạch mạc treo tràng trên trước tiên2024-04-17T03:47:46+00:00Nguyễn Hàm HộiHamhoint30@gmail.comNguyễn Thành KhiêmKhiemnguyenthanh@yahoo.comLê Văn DuyLeduydr.2010@gmail.comĐỗ Văn MinhMinhdv140595@gmail.comLương Tuấn HiệpHiep1995hsgs@gmail.comNguyễn Đăng VữngNguyendangvung@hmu.edu.vnTrịnh Hồng Sơnthsonvd@yahoo.com<p>Ứng dụng phẫu thuật nội soi cắt khối tá tụy và tiếp động mạch mạc treo tràng trên trước tiên từ phía bên trái trong mổ mở cắt khối tá tụy đã được chứng minh hiệu quả giúp người bệnh hồi phục sớm sau mổ, đạt tỷ lệ R0 cao hơn. Mục đích của nghiên cứu là đánh giá kết hợp tiếp cận động mạch mạc treo tràng trên trước tiên trong phẫu thuật nội soi cắt khối tá tụy liệu có khả thi không. Nghiên cứu tiến cứu, can thiệp không đối chứng kết quả gần của 37 người bệnh ung thư biểu mô vùng tá tràng đầu tụy giai đoạn có thể cắt bỏ từ 1/2021 - 12/2023 ứng dụng phẫu thuật nội soi cắt khối tá tụy có tiếp cận động mạch mạc treo tràng trên trước từ phía bên trái. Kết quả cho thấy: tai biến chứng trong mổ 10,8% (trong đó 5,4% tổn thương động mạch đại tràng giữa, 2,7% tổn thương tĩnh mạch cửa, 2,7% tổn thương tĩnh mạch mạc treo tràng trên), chuyển mổ mở 2,7%, rò tụy sau mổ 24,3% (2,7% rò tụy độ B), chảy máu sau mổ 10,8%, chậm lưu thông dạ dày 5,4%, rò dưỡng chấp 18,9%, phân độ theo Clavien - Dindo độ III trở lên 10,8%, không có người bệnh tử vong, nặng về. Thời gian nằm viện trung bình 14,3 ngày. Kết luận: phẫu thuật nội soi cắt khối tá tụy bước đầu cho thấy khả thi, với tỷ lệ tai biến trong mổ và biến chứng sau mổ từ độ III trở lên không cao. Tuy nhiên, cần có các nghiên cứu so sánh đối chứng để đưa ra kết luận chính xác hơn.</p>2024-06-20T00:00:00+00:00Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Y họchttps://tapchinghiencuuyhoc.vn/index.php/tcncyh/article/view/238116. Nguy cơ hội chứng nuôi ăn lại và một số yếu tố liên quan ở người bệnh ung thư thực quản xét chỉ định xạ trị2024-04-29T08:31:26+00:00Trần Trung Báchtrantrungbach@hmu.edu.vnNguyễn Minh Nhậtminhnhat97hmu@gmail.comNguyễn Thị ThanhBsthanhnguyen0915bn@gmail.comNguyễn Quang Duynqduy10210@gmail.comVũ Xuân Huydrvuhuy85@gmail.comVõ Văn Xuânxuandr64@gmail.com<p>Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 132 bệnh nhân ung thư thực quản tại Khoa Xạ trị Tổng hợp Tân Triều, Bệnh viện K từ tháng 3/2022 đến tháng 3/2024 nhằm đánh giá nguy cơ phát triển hội chứng nuôi ăn lại tại thời điểm xét chỉ định điều trị xạ trị. Tuổi chẩn đoán trung vị là 60,7, tỷ lệ nam:nữ là 131:1, 100% có mô bệnh học là ung thư biểu mô tế bào vảy. Đa số bệnh nhân có u thực quản ở vị trí 1/3 trên (74,3%) và khi chẩn đoán đã ở giai đoạn bệnh tiến triển tại chỗ - tại vùng hoặc di căn (giai đoạn III - IV, 87,1%). Tỷ lệ nguy cơ cao phát triển hội chứng nuôi ăn lại theo tiêu chuẩn của Viện chăm sóc sức khỏe chất lượng cao Quốc gia Anh (NICE) năm 2017 là 29,5%. Chiều dài khối u nguyên phát (với ngưỡng cut-off là 6,7cm), nuốt nghẹn từ độ 2 trở lên, có sút cân khi vào viện và ăn qua sonde mở thông dạ dày là các yếu tố có liên quan nguy cơ cao phát triển hội chứng nuôi ăn lại (p < 0,05).</p>2024-06-20T00:00:00+00:00Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Y họchttps://tapchinghiencuuyhoc.vn/index.php/tcncyh/article/view/239117. Kết quả điều trị viêm tụy cấp có rối loạn đông máu ở trẻ em tại Bệnh viện Nhi Trung ương2024-05-03T03:07:45+00:00Nguyễn Thị Việt Hàvietha@hmu.edu.vnNinh Quốc Đạtninhquocdat@hmu.edu.vnNguyễn Hoài Thươngdrhoaithuong185@gmail.com<p>Viêm tụy cấp là tình trạng tổn thương viêm nhu mô tuyến tụy cấp tính, xảy ra ở nhiều mức độ khác nhau, có khả năng tự giới hạn nhưng có thể tiến triển nặng với nhiều biến chứng tại chỗ và toàn thân. Sự thay đổi của các yếu tố đông máu đã được báo cáo ở nhiều bệnh nhân mắc viêm tụy cấp. Mục tiêu của nghiên cứu là nhận xét kết quả điều trị viêm tụy cấp có rối loạn đông máu ở trẻ em. Nghiên cứu mô tả loạt ca bệnh trên 53 trẻ được chẩn đoán viêm tụy cấp theo tiêu chuẩn Atlanta sửa đổi năm 2012 và có ít nhất một xét nghiệm đông máu nằm ngoài giới hạn bình thường theo tuổi điều trị tại Bệnh viện Nhi Trung ương từ tháng 01/2022 đến tháng 07/2023. Kết quả cho thấy, tỷ lệ mắc bệnh ở trẻ trai và trẻ gái lần lượt là 52,8% và 47,2% với tuổi trung vị là 5,5 tuổi. 92,5% trẻ đáp ứng với điều trị nội khoa đơn thuần, 86,8% trẻ khỏi hoàn toàn và 13,2% trẻ tái phát. 56,6% bệnh nhân có nồng độ D-Dimer ≥ 5000 ng/mL. Tỷ lệ tụ dịch quanh tụy và dịch tự do ổ bụng ở nhóm này lần lượt là 76,7% và 83,3% cao hơn so với nhóm có nồng độ D-Dimer < 5000 ng/mL (43,5% và 52,2%). Thời gian nằm viện ở nhóm trẻ có nồng độ D-Dimer ≥ 5000 ng/mL (12,5 ngày (IQR: 8 - 17 ngày)) dài hơn so với nhóm có nồng độ D-Dimer < 5000 ng/mL (9 ngày, IQR: 7,5 - 13 ngày); tuy nhiên không có sự khác biệt về tỷ lệ khỏi bệnh và tái phát giữa hai nhóm.</p>2024-06-20T00:00:00+00:00Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Y họchttps://tapchinghiencuuyhoc.vn/index.php/tcncyh/article/view/240218. Tán sỏi qua da đường hầm nhỏ dưới hướng dẫn siêu âm cho bệnh nhân sỏi thận phức tạp: Lựa chọn đường vào và chiến lược phẫu thuật2024-05-03T06:42:39+00:00Nguyễn Huy HoàngHoangnt35@gmail.comĐỗ Ngọc Sơndongocson1976@gmail.com<p>Tán sỏi thận qua da đường hầm nhỏ (miniPCNL) đã trở thành tiêu chuẩn và dần thay thế mổ mở trong điều trị sỏi thận. Nghiên cứu nhằm đánh giá vai trò của việc lựa chọn đường vào và chiến lược phẫu thuật trong điều trị sỏi thận phức tạp bằng miniPCNL dưới hướng dẫn của siêu âm. Nghiên cứu quan sát 51 trường hợp sỏi thận phức tạp được miniPCNL. Kết quả cho thấy: tất cả bệnh nhân chỉ phải tán sỏi một lần duy nhất; tỷ lệ sạch sỏi sớm sau mổ 92,2% và sau 1 tháng đạt 96,1%; không gặp các tai biến, biến chứng nặng trong và sau mổ. Nghiên cứu cho thấy miniPCNL dưới hướng dẫn siêu âm để điều trị sỏi thận phức tạp với 1 lần tán và số đường hầm tối thiểu là khả thi nếu lựa chọn đường vào tốt và có chiến lược phẫu thuật hợp lý.</p>2024-06-20T00:00:00+00:00Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Y họchttps://tapchinghiencuuyhoc.vn/index.php/tcncyh/article/view/241119. So sánh hiệu quả giảm đau cho bệnh nhân gãy xương dài chi dưới của gây tê thần kinh đùi và gây tê thần kinh hông to với chuẩn độ morphin tĩnh mạch2024-05-03T02:16:20+00:00Vũ Đình Lượngluongtbump@gmail.comVũ Minh Hảivuminhhai777@gmail.comNguyễn Hữu Túnguyenhuutu@hmu.edu.vn<p>Gây tê thần kinh đùi (FNB) phối hợp gây tê thần kinh hông to (SNB) theo đường trước bệnh nhân nằm ngửa tránh thay đổi tư thế gây đau đớn, khó chịu, thậm chí có thể làm nặng thêm tổn thương gẫy xương ở người bệnh. Nghiên cứu được thực hiện nhằm so sánh hiệu quả của FNB và SNB đường trước dưới hướng dẫn của siêu âm với giảm đau bằng morphin tĩnh mạch cho 130 bệnh nhân gãy xương dài chi dưới. 65 bệnh nhân nhóm L thực hiện FNB và SNB, tư thế nằm ngửa; 65 bệnh nhân nhóm M sử dụng morphin tĩnh mạch. Không có sự khác biệt về tuổi, giới, chẩn đoán và nguyên nhân gãy xương. Thời gian thực hiện FNB và SNB là 4,78 ± 1,65 phút. Thời gian chuẩn độ morphin là 20,08 ± 3,5 phút. Thời gian khởi phát hiệu quả giảm đau nhóm L 13,58 ± 2,6 phút; nhóm M là 25,08 ± 3,59 phút. Điểm VAS trung bình sau tiêm 15 phút là 0,34 ± 0,08 nhóm L và 3,02 ± 0,54 nhóm M. Cả 2 nhóm không có bệnh nhân rối loạn mạch, huyết áp; không ức chế vận động, không có bệnh nhân nôn và buồn nôn, không có bệnh nhân bị ngứa. Phối hợp FNB và SNB đường trước dưới hướng dẫn của siêu âm là kỹ thuật giảm đau an toàn, nhanh và hiệu quả hơn so với sử dụng morphin tĩnh mạch.</p>2024-06-20T00:00:00+00:00Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Y họchttps://tapchinghiencuuyhoc.vn/index.php/tcncyh/article/view/242120. Bước đầu đánh giá kết quả của can thiệp đa yếu tố trên chức năng thể chất của người bệnh mắc sa sút trí tuệ tại viện dưỡng lão2024-05-07T08:26:01+00:00Nguyễn Xuân Thanhxuanthanhbmlk@hmu.edu.vnĐỗ Đức Huyhuydd1905@gmail.comTrần Viết Lựctranvietluc@hmu.edu.vnNguyễn Trung Anhtrunganhvlk@gmail.com<p>Mục tiêu nghiên cứu nhằm đánh kết quả của can thiệp đa yếu tố (thể chất, nhận thức, theo dõi và quản lý chuyên sâu các yếu tố nguy cơ chuyển hóa và mạch máu) trên chức năng thể chất của người bệnh mắc sa sút trí tuệ tại một số Viện dưỡng lão. Nghiên cứu thử nghiệm can thiệp ngẫu nhiên có nhóm chứng trên 60 người bệnh từ 60 tuổi trở lên, được chẩn đoán sa sút trí tuệ mức độ nhẹ - trung bình theo tiêu chuẩn DSM V. Chức năng thể chất được đánh giá bằng trắc nghiệm đo cơ lực và trắc nghiệm 30 giây. Tại thời điểm bắt đầu nghiên cứu: tuổi trung bình của nhóm can thiệp là 78,53 (7,44); tuổi trung bình của nhóm chứng 78,43 (8,81). Sau thời gian can thiệp 6 tháng, thay đổi của nhóm can thiệp so với nhóm chứng trên điểm cơ lực là 3,59 điểm (CI 95%: 1,29 - 8,47), điểm trắc nghiệm 30 giây là 2,6 điểm (CI 95%: 1,2 - 4,01). Kết quả nghiên cứu bước đầu cho thấy xu hướng cải thiện chức năng thể chất của người bệnh mắc sa sút trí tuệ tại Viện dưỡng lão sau can thiệp đa yếu tố. </p>2024-06-20T00:00:00+00:00Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Y họchttps://tapchinghiencuuyhoc.vn/index.php/tcncyh/article/view/242421. Hiệu quả của tiêm thuốc tê ngắt quãng theo chương trình vào khoang ngoài màng cứng trong giảm đau chuyển dạ2024-05-10T12:34:03+00:00Nguyễn Toàn Thắngnguyentoanthang@hmu.edu.vnHoàng Văn Tuấnhoangtuan.hccc@gmail.comNguyễn Văn HoàngDrhoanganest@gmail.com<p>Nghiên cứu nhằm so sánh hiệu quả của tiêm ngắt quãng theo chương trình (PIEB) và truyền liên tục (CEI) thuốc tê vào khoang ngoài màng cứng để giảm đau trong chuyển dạ đẻ tại Bệnh viện Bạch Mai. Từ tháng 4 - 12/2022, 60 sản phụ chuyển dạ được gây tê ngoài màng cứng và phân ngẫu nhiên vào nhóm P (n = 30, dùng PIED) và nhóm C (n = 30, dùng CEI). Điểm đau, số liều giải cứu, tổng liều thuốc tê, ảnh hưởng lên vận động và mức độ hài lòng của mẹ và điểm Apgar được ghi nhận. Kết quả, điểm đau VAS đều dưới 4 và tương đương nhau ở hai nhóm trong quá trình chuyển dạ, tuy nhiên tỉ lệ cần liều giải cứu ở nhóm P ít hơn nhóm C (20% so với 40%, p < 0,05). Ảnh hưởng lên điểm Bromage ở mẹ và điểm Apgar của sơ sinh là tương đương nhau. Tỷ lệ sản phụ rất hài lòng ở nhóm P cao hơn đáng kể so với nhóm C (90% vs 60%, p < 0,05). Kết luận, PIEB là phương thức mang lại hiệu quả giảm đau tốt, ít phải can thiệp chỉnh liều và tăng sự hài lòng cho sản phụ.</p>2024-06-20T00:00:00+00:00Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Y họchttps://tapchinghiencuuyhoc.vn/index.php/tcncyh/article/view/243022. Giá trị thang điểm hệ thống phân tầng PIRO trong tiên đoán bệnh nặng nhiễm khuẩn huyết trẻ em2024-05-10T12:11:30+00:00Nguyễn Hữu Châu Đứcnhcduc@hueuni.edu.vnPhạm Thị Ngọc Bíchtapchinghiencuuyhoc@hmu.edu.vn<p>Nhiễm khuẩn huyết là một trong những nguyên nhân chính gây tử vong toàn cầu ở trẻ em. Hệ thống PIRO gồm bốn thành phần: cơ địa, nhiễm khuẩn, phản ứng của vật chủ và rối loạn chức năng cơ quan, được xem là công cụ phân tầng lý tưởng cho những bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết. Nghiên cứu của chúng tôi trên 87 bệnh nhi nhiễm khuẩn huyết tại Trung tâm Nhi, Bệnh viện Trung ương Huế từ năm 2022 đến 2023. Kết quả cho thấy bệnh nhi nhiễm khuẩn huyết có thời gian nằm viện trung vị là 12 (10 - 17) ngày. Các đặc điểm như có bệnh nền, suy giảm tri giác, thiếu máu, creatinin tăng, men gan tăng thường gặp nhiều hơn ở trẻ sốc nhiễm khuẩn. Hệ thống phân tầng PIRO có giá trị tốt trong tiên đoán nặng ở trẻ nhiễm khuẩn huyết với diện tích dưới đường cong là 0,8. Tại điểm cắt 1,72 thang điểm PIRO cho khả năng tiên đoán sốc với độ nhạy là 63,3%, độ đặc hiệu là 96,5%.</p>2024-06-20T00:00:00+00:00Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Y họchttps://tapchinghiencuuyhoc.vn/index.php/tcncyh/article/view/240723. Một số yếu tố liên quan đến thiếu máu ở trẻ đẻ non dưới 32 tuần tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương2024-05-15T01:25:03+00:00Phạm Hoàng Tháidrthaiph@gmail.comNguyễn Thị Vânnguyenthivan@hmu.edu.vnLê Minh Tráchoangtrac2000@gmail.com<p>Thiếu máu ở trẻ sơ sinh được định nghĩa khi nồng độ hemoglobin hoặc hematocrit dưới 2 độ lệch chuẩn so với mức trung bình theo tuổi sau sinh của trẻ. Thiếu máu ở trẻ sơ sinh có thể là sinh lý hoặc bệnh lý. Thiếu máu ở trẻ đẻ non thường là thiếu máu bệnh lý. Thiếu máu ở trẻ đẻ non có nhiều yếu tố liên quan. Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 130 trẻ sơ sinh non tháng có tuổi thai dưới 32 tuần tại Trung tâm Chăm sóc và Điều trị sơ sinh, Bệnh viện Phụ Sản Trung ương trong thời gian từ tháng 09/2023 đến tháng 03/2024. Tuổi thai trung bình của nhóm nghiên cứu là 30,04 ± 1,79 tuần. Cân nặng khi sinh trung bình là 1317,3 ± 336,6 gram. Tỷ lệ thiếu máu ở trẻ đẻ non dưới 32 tuần là 47,7%. Tỷ lệ thiếu máu cao nhất ở trẻ có tuổi thai 27 tuần, với tỷ lệ 100%. Trẻ có tuổi thai từ 27 tuần trở lên tỷ lệ thiếu máu tỷ lệ nghịch so với tuổi thai. Số lần lấy máu trong quá trình điều trị trên 3 lần và trẻ bị mắc bệnh phổi mạn là yếu tố nguy cơ của thiếu máu ở trẻ đẻ non.</p>2024-06-20T00:00:00+00:00Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Y họchttps://tapchinghiencuuyhoc.vn/index.php/tcncyh/article/view/242024. Kết quả phẫu thuật nội soi cắt túi mật do viêm túi mật cấp có sử dụng ống hút nội soi để phẫu tích: Hồi cứu 198 ca bệnh tại Bệnh viện Bạch Mai2024-05-11T08:31:12+00:00Trần Quế Sơntranqueson@hmu.edu.vnNguyễn Ngọc Hùngtapchinghiencuuyhoc@hmu.edu.vnTrần Hiếu Họctranhieuhoc@hmu.edu.vnVũ Thị Phương Anhvuanh2945@gmail.comLường Văn Quýtapchinghiencuuyhoc@hmu.edu.vnTrần Thu Hươngquesonyhn@gmail.com<p>Viêm túi mật cấp là tổn thương phức tạp do biến đổi về giải phẫu, viêm dính, sỏi kẹt cổ gây khó khăn khi mổ nội soi ngay cả với các phẫu thuật viên có kinh nghiệm. Nghiên cứu nhằm đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi có sử dụng ống hút nội soi trong điều trị viêm túi mật cấp. Chúng tôi thực hiện nghiên cứu mô tả các ca bệnh được mổ từ tháng 1/2020 đến 4/2024 tại Bệnh viện Bạch Mai. Tổng số 198 người bệnh (gồm 144 nam và 54 nữ). Tuổi trung vị là 62 tuổi, (IQR, 47,2 - 73,5). Tiêu chuẩn an toàn (Critical View of Safety - CVS) đạt được ở 135 bệnh nhân (68,1%). Tổn thương trong mổ của túi mật với đặc điểm viêm phù nề, viêm mủ và viêm hoại tử lần lượt là 70,1%, 11,2% và 18,7%. Thời gian phẫu tích tam giác Calot và thời gian mổ lần lượt là 34 phút (IQR, 26 - 41) và 56,5 phút (IQR, 49,2 - 67). Tỷ lệ cắt túi mật toàn bộ và cắt túi mật gần toàn bộ (sub total cholecystectomy) lần lượt là 89,8% và 10,2%. Biến chứng chảy máu phải mổ lại và rò mật lần lượt là 0,5% và 1,01%. Thời gian nằm viện là 4 ngày (IQR, 3 - 5). Nghiên cứu cho thấy ống hút nội soi được sử dụng hiệu quả để cắt bỏ túi mật viêm cấp .Biến chứng ít, nhẹ, tỷ lệ mổ lại thấp và không tử vong.</p>2024-06-20T00:00:00+00:00Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Y họchttps://tapchinghiencuuyhoc.vn/index.php/tcncyh/article/view/238325. Khảo sát độ dày ngà chân răng, trên răng vĩnh viễn hàm lớn thứ nhất hàm dưới2024-05-08T04:29:30+00:00Nguyễn Ngọc Linh Chichiiinguyen1211@gmail.comLê Hồng Vânhvan1010@gmail.com<p>Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên hình ảnh phim chụp cắt lớp chùm tia hình nón của 90 răng hàm lớn thứ nhất hàm dưới chụp tại Bệnh viện Răng Hàm Mặt Trung ương Hà Nội, nhằm khảo sát độ dày ngà và xác định vùng nguy hiểm của chân răng vĩnh viễn gần và xa. Kết quả cho thấy: ở chân răng gần, ngà răng thành xa mỏng nhất, đặc biệt dưới chẽ răng 3mm độ dày ngà giảm mạnh. Với chân răng xa, ngà thành gần mỏng nhất; vị trí dưới chẽ răng 3mm có độ dày ngà giảm mạnh nhất và mỏng hơn nhiều so với 3 thành còn lại. Như vậy, “Vùng nguy hiểm” ở răng vĩnh viễn hàm lớn thứ nhất gồm 2 vị trí dưới chẽ răng 3mm ở thành xa của chân răng gần và thành gần chân răng xa với độ dày ngà trung bình lần lượt là 0,79 ± 0,18mm và 0,89 ± 0,20mm. </p>2024-06-20T00:00:00+00:00Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Y họchttps://tapchinghiencuuyhoc.vn/index.php/tcncyh/article/view/239326. So sánh mức độ tương quan và tương đồng của một số giá trị thông số ước tính từ khí máu tĩnh mạch với khí máu động mạch ở các bệnh nhân hồi sức tích cực2024-05-13T09:53:54+00:00Hồ Thị Bảo Châuhtb.chau@hutech.edu.vnLê Duy Phươngleduyphuongxn@gmail.com<p>Xét nghiệm khí máu động mạch được chỉ định thường quy ở những bệnh nhân (BN) nặng, được điều trị tại các Khoa Hồi sức tích cực và cấp cứu. Tuy nhiên, khí máu động mạch là kỹ thuật lấy mẫu xâm lấn, khó lấy và thậm chí gây một số biến chứng cho bệnh nhân. Ngược lại, khí máu tĩnh mạch lấy mẫu đơn giản hơn và ít gây biến chứng. Mục tiêu của nghiên cứu là phân tích mức độ tương quan và sự tương đồng giữa giá trị khí máu động mạch và giá trị ước tính từ khí máu tĩnh mạch (sau đây gọi là UT) dựa trên một công thức cụ thể, áp dụng trên cùng một nhóm bệnh nhân tại một thời điểm. Nghiên cứu mô tả, trên 74 bệnh nhân có chỉ định khí máu động mạch tại Khoa Hồi sức tích cực. Kết quả cho thấy có sự tương quan chặt chẽ và độ tương đồng cao giữa giá trị khí máu động mạch và khí máu UT ở giá trị pO<sub>2</sub>, pCO<sub>2</sub> lần lượt là r = 0,99; r = 0,97; giá trị chênh lệch pO<sub>2</sub>, pCO<sub>2</sub> lần lượt là ĐM_UT: 4,84 mmHg; -3,43 mmHg.</p>2024-06-20T00:00:00+00:00Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Y họchttps://tapchinghiencuuyhoc.vn/index.php/tcncyh/article/view/240027. Báo cáo ca bệnh: Chẩn đoán trước sinh biến thể gen ALPL gây bệnh giảm phosphat máu ở thai nhi có bất thường hệ xương2024-05-06T01:29:51+00:00Đào Thị Trangdaotrangdt39@gmail.comLương Thị Lan Anhluongthilananh@hmu.edu.vnTăng Xuân Hảibstangxuanhai@gmail.comTrần Anh Tútrananhtubvgtvinh@gmail.comNguyễn Xuân Chungbacsisankhoa203@gmail.comNgô Văn CảnhCanhbsdk@gmail.comĐinh Thị Quỳnhdinhquynhykhoa@gmail.comNguyễn Thị Hảohaohao.hmu@gmail.com<p>Bệnh giảm phosphat máu (Hypophosphatasia) do biến thể gây bệnh trên gen<em> ALPL</em> là bệnh hiếm gặp, một số ít ca được chẩn đoán di truyền trước sinh khi siêu âm phát hiện bất thường hệ xương. Nghiên cứu mô tả trường hợp thai phụ 26 tuổi mang thai lần đầu, thai 17 tuần siêu âm phát hiện ngắn các xương dài và gập góc, giảm mật độ xương, bàn chân vẹo. Xét nghiệm giải trình tự vùng mã hoá của các gen (Exome sequencing, ES) cho mẫu ối và giải trình tự Sanger cho mẫu máu bố mẹ. Kết quả phát hiện đồng hợp tử biến thể có khả năng gây bệnh trên gen<em> ALPL</em>:c.707A>G (NM_000478.6) ở thai. Bố, mẹ là người mang dị hợp tử biến thể này với thể nhẹ của bệnh giảm phosphat máu. Thai nhi với bất thường hệ xương cần lưu ý cơ chế di truyền lặn, trong đó có gen <em>ALPL</em> gây bệnh Hypophosphatasia. Xác định nguyên nhân di truyền ở thai nhi và phân tích tình trạng mang gen của bố mẹ giúp đánh giá rõ về nguy cơ tái mắc ở lần mang thai sau, từ đó, tư vấn các phương pháp chẩn đoán trước sinh phù hợp cho gia đình.</p>2024-06-20T00:00:00+00:00Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Y họchttps://tapchinghiencuuyhoc.vn/index.php/tcncyh/article/view/235028. Nghiên cứu độc tính cấp và bán trường diễn của ung dịch uống EATWELLB trên động vật thực nghiệm2024-03-26T07:36:52+00:00Nguyễn Thị Thanh Loannguyenthanhloan@hmu.edu.vnTrần Thanh Tùngtranthanhtung@hmu.edu.vn<p>Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá độc tính cấp và bán trường diễn theo đường uống của dung dịch EATWELLB trên động vật thực nghiệm. Nghiên cứu độc tính cấp được tiến hành trên chuột nhắt trắng chủng <em>Swiss</em> theo đường uống và xác định liều gây chết 50% chuột (lethal dose, LD<sub>50</sub>) theo phương pháp Litchfied-Wilcoxon. Nghiên cứu độc tính bán trường diễn tiến hành theo hướng dẫn của Tổ chức Y tế Thế giới. Chuột cống trắng chủng Wistar được uống EATWELLB liều 1,8 mL/kg và 5,4 mL/kg trong 4 tuần liên tục. Kết quả nghiên cứu độc tính cấp cho thấy EATWELLB liều 75mL dung dịch gốc/kg không gây biểu hiện độc tính cấp. Như vậy, liều dung nạp tối đa của EATWELLB cao gấp 20,8 lần liều dùng dự kiến trên người không gây độc tính cấp. Chưa xác định được LD50 trên chuột nhắt trắng của dung dịch EATWELLB theo đường uống. Kết quả nghiên cứu độc tính bán trường diễn cho thấy tình trạng chung, các chỉ số huyết học, chức năng gan, thận và hình thái vi thể gan, thận không có sự khác biệt so với lô chứng sinh học và so sánh với thời điểm trước khi dùng thuốc thử. Như vậy, dung dịch EATWELLB liều 1,8 mL/kg và 5,4 mL/kg uống trong 4 tuần liên tục không gây độc tính bán trường diễn trên động vật thực nghiệm.</p>2024-06-20T00:00:00+00:00Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Y họchttps://tapchinghiencuuyhoc.vn/index.php/tcncyh/article/view/235829. Tác dụng của viên nang cứng từ bài thuốc “Dạ dày HĐ” trên bệnh nhân viêm loét dạ dày tá tràng có Helicobacter pylory dương tính2024-04-17T01:27:54+00:00Nghiêm Thị Thanh Hườngnghiemhuong675@gmail.comDương Hồng Quânquanduong10@gmail.comNguyễn Thị Thanh Túthanhtu@hmu.edu.vn<p>Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá tác dụng điều trị bệnh viêm loét dạ dày tá tràng có<em> Helicobacter pylori</em> dương tính bằng viên nang cứng từ bài thuốc “Dạ dày HĐ” và theo dõi tác dụng không mong muốn của chế phẩm trên lâm sàng và cận lâm sàng. Nghiên cứu can thiệp lâm sàng mở, so sánh trước sau điều trị trên 72 bệnh nhân được chẩn đoán viêm loét dạ dày - tá tràng có <em>Helicobacter pylori</em> dương tính. Bệnh nhân được uống viên nang cứng từ bài thuốc “Dạ dày HĐ”, hàm lượng 500 mg/1 viên, 8 viên/ngày, uống liên tục trong 45 ngày. Kết quả nghiên cứu cho thấy viên nang cứng từ bài thuốc “Dạ dày HĐ” có tác dụng cải thiện các triệu chứng lâm sàng có ý nghĩa thống kê so với trước điều trị như đau tức thượng vị, ăn kém, chán ăn, nôn, buồn nôn, ợ hơi, ợ chua, đầy bụng chậm tiêu (p < 0,05). Mức độ nhiễm <em>Helicobacter pylori</em> trên kết quả mô bệnh học giảm có ý nghĩa thống kê so với trước điều trị (p < 0,05). Tỷ lệ <em>Helicobacter pylori</em> âm tính là 57,8%. Có 5,6% bệnh nhân bị táo bón sau khi sử dụng thuốc. Chưa phát hiện tác dụng không mong muốn của chế phẩm trên cận lâm sàng.</p>2024-06-20T00:00:00+00:00Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Y họchttps://tapchinghiencuuyhoc.vn/index.php/tcncyh/article/view/239830. Nghiên cứu độc tính bán trường diễn của cao dây thìa canh (Gymnema sylvestre) trên thực nghiệm2024-04-26T01:32:20+00:00Trần Gia Trangtrang041099@gmail.comLê Hồng Oanhlhoanh@most.gov.vnPhương Thiện Thươngptthuong@most.gov.vnNguyễn Thùy DươngDuongnt@hup.edu.vnHoàng Minh Châuhoangminhchau@namduoc.vnĐậu Thùy Dươngdauthuyduong@hmu.edu.vnTrần Quỳnh Trangtranquynhtrang@hmu.edu.vnNguyễn Thị Thúythuynguyenthi@hmu.edu.vnPhạm Thị Vân Anhphamvananh@hmu.edu.vnĐinh Thị Thu Hằngdinhthuhang@hmu.edu.vn<p>Nghiên cứu được tiến hành nhằm đánh giá độc tính bán trường diễn của cao Dây thìa canh (Gymnema sylvestre) theo đường uống trên động vật thực nghiệm. Nghiên cứu độc tính bán trường diễn được tiến hành theo hướng dẫn của WHO, chuột cống trắng chủng <em>Wistar</em> được uống liên tục cao Dây thìa canh với mức liều 50 mg/kg/ngày và 250 mg/kg/ngày trong vòng 12 tuần liên tục. Kết quả cho thấy cao Dây thìa canh khi dùng đường uống liều 50 mg/kg/ngày và 250 mg/kg/ngày liên tục trong 12 tuần không ảnh hưởng đến tình trạng chung, thể trọng, các chỉ số huyết học, chức năng gan, thận và mô bệnh học gan, thận trên chuột cống trắng. Như vậy, cao Dây thìa canh không gây độc tính bán trường diễn trên chuột cống thực nghiệm. </p>2024-06-20T00:00:00+00:00Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Y họchttps://tapchinghiencuuyhoc.vn/index.php/tcncyh/article/view/243731. Propylene glycol gây ảnh hưởng đến khả năng sinh sản và tuổi thọ trên mô hình ruồi giấm thực nghiệm2024-05-20T10:00:31+00:00Nguyễn Trọng Tuệtrongtue@hmu.edu.vnNguyễn Thu Thúytapchinghiencuuyhoc@hmu.edu.vnDương Thị Thu Thuỷtapchinghiencuuyhoc@hmu.edu.vnTrần Quốc Đạttapchinghiencuuyhoc@hmu.edu.vn<p>Propylene glycol (PG) là một chất phụ gia hiện đang được sử dụng rộng rãi làm dung môi, chất giữ ẩm, chất chống đông trong thực phẩm, dược phẩm và mỹ phẩm. Năm 1982, PG được FDA (Food and Drug Administration) xếp vào nhóm GRAS (Generally Recognized As Safe - được công nhận là an toàn), nhưng ngày càng có nhiều ghi nhận và báo cáo về độc tính của PG. Do đó, trong nghiên cứu này chúng tôi sử dụng mô hình ruồi giấm để đánh giá mức độ ảnh hưởng của PG đến sức khoẻ và khả năng sinh sản. Kết quả nghiên cứu cho thấy ruồi phơi nhiễm với PG nồng độ 1%, tuổi thọ giảm 89,7% ở con cái và 86,7% ở ruồi đực khi so với nhóm chứng. Nồng độ PG 0,5% làm giảm mạnh khả năng sinh sản đến 39,74% so với nhóm chứng. Đồng thời, nồng độ PG 0,1% làm giảm biểu hiện gen thụ thể liên quan đến estrogen - ERR (Estrogen-related receptor) rõ rệt từ 10 ngày đến 30 ngày tuổi. Trong khi, nồng độ PG 0,02% và 0,2% đều làm tăng biểu hiện gen ERR ở 10 ngày tuổi và giảm biểu hiện ở 20 ngày tuổi. Vào thời điểm 30 ngày tuổi, biểu hiện ERR tăng ở nồng độ 0,02% nhưng giảm ở nồng độ 0,2%. Biểu hiện gen thụ thể ecdysone - EcR (ecdysone receptor) ở nhóm nghiên cứu tăng gấp 10 lần so với nhóm chứng ở cả 3 nồng độ PG vào thời điểm 10 ngày tuổi. Nhưng biểu hiện của EcR lại giảm rõ rệt tại thời điểm 20 và 30 ngày tuổi ở nồng độ 0,1% và 0,2% PG. Từ các kết quả cho thấy, Propylene glycol làm giảm tuổi thọ và tác động đến thụ thể hormon sinh sản trên mô hình ruồi giấm, và đây cũng là gợi ý cho việc mở rộng nghiên cứu cho đánh giá các chất phụ gia khác đối với sức khoẻ con người.</p>2024-06-20T00:00:00+00:00Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Y họchttps://tapchinghiencuuyhoc.vn/index.php/tcncyh/article/view/235132. Đặc điểm chất lượng giấc ngủ ở sinh viên Trường Cao đẳng Y tế Lâm Đồng trong năm học 2023 - 20242024-04-03T01:57:26+00:00Nguyễn Tuấn AnhTuananhdl2007@gmail.comDương Quý SỹTuananhdl2007@gmail.comĐào Xuân Vinhdxvinh2008@yahoo.com.vn<p>Chất lượng giấc ngủ kém là tình trạng phổ biến trong số sinh viên và có liên quan đến tình trạng sức khỏe, hiệu suất học tập giảm đi. Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 492 sinh viên trường Cao đẳng Y tế Lâm Đồng từ tháng 1 đến tháng 3/2024 với mục tiêu nghiên cứu đánh giá chất lượng giấc ngủ của sinh viên trường. Thu thập số liệu thông qua bộ câu hỏi PSQI bằng hình thức trả lời phát vấn. Xử lý phân tích số liệu bằng phần mềm STATA 17.0. Kết quả cho thấy phần lớn đối tượng là nữ giới chiếm 84,6%; nam giới chiếm 15,4%. Thời gian ngủ trung bình của đối tượng là 7,17 ± 1,04 giờ/đêm. Tỷ lệ sinh viên gặp khó khăn để duy trì hứng thú hoàn thành các công việc khá cao chiếm 62,2%. Điểm PSQI chung ở cả 7 thành phần 4,47 ± 2,83 điểm. Có 31,5% đối tượng có chất lượng giấc ngủ chưa tốt. Rối loạn giấc ngủ ở sinh viên năm 1 là 40,7% cao hơn so với sinh viên năm 2 và năm 3 (26,3% và 20,9%), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Cần có biện pháp tư vấn, hỗ trợ cho nhóm đối tượng sinh viên năm 1 và các nhóm sinh viên có chất lượng giấc ngủ chưa tốt. </p>2024-06-20T00:00:00+00:00Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Y họchttps://tapchinghiencuuyhoc.vn/index.php/tcncyh/article/view/236633. Căng thẳng học tập, chất lượng giấc ngủ ở học sinh THPT chuyên Thoại Ngọc Hầu, thành phố Long Xuyên, An Giang và các yếu tố liên quan2024-04-24T01:32:47+00:00Nguyễn Huỳnh Thùy Trangnhttrang.yhdp17@ump.edu.vnLê Trường Vĩnh Phúcltvphucytcc@ump.edu.vnHuỳnh Hồ Ngọc Quỳnhhhnquynhytcc@ump.edu.vn<p>Nghiên cứu cắt ngang nhằm xác định tỉ lệ học sinh THPT chuyên Thoại Ngọc Hầu, thành phố Long Xuyên, An Giang có căng thẳng học tập trung bình - nặng, chất lượng giấc ngủ kém và các yếu tố liên quan. 447 học sinh trường THPT chuyên Thoại Ngọc Hầu, TP. Long Xuyên, An Giang được chọn tham gia nghiên cứu. Tình trạng căng thẳng học tập được xác định bằng thang đo ESSA và chất lượng giấc ngủ được đánh giá bằng thang đo PSQI. Kết quả cho thấy tỉ lệ học sinh có căng thẳng học tập từ mức trung bình trở lên chiếm 60,0%, trong đó căng thẳng học tập nặng chiếm 25,8%. Tỉ lệ học sinh có chất lượng giấc ngủ kém là 70,1%. Các yếu tố liên quan đến tình trạng căng thẳng học tập của học sinh là tuổi, học lực, tình trạng hôn nhân của cha mẹ và mối quan hệ với giáo viên. Các yếu tố liên quan đến chất lượng giấc ngủ của học sinh là chức vụ, người sống chung, tình cảm gia đình và mối quan hệ với bạn bè. Nghiên cứu cũng ghi nhận sự khác biệt giữa chất lượng giấc ngủ với mức độ căng thẳng học tập của học sinh (p < 0,001). Tỉ lệ căng thẳng học tập trung bình - nặng và chất lượng giấc ngủ kém ở học sinh khá cao. Việc thực hiện và phối hợp các giải pháp từ phía học sinh, gia đình và nhà trường giúp giảm căng thẳng học tập cũng như cải thiện, nâng cao chất lượng giấc ngủ cho các em là điều cần thiết.</p>2024-06-20T00:00:00+00:00Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Y họchttps://tapchinghiencuuyhoc.vn/index.php/tcncyh/article/view/243334. Kiến thức, thái độ về vi rút và các bệnh do HPV của nam sinh viên khối y học dự phòng năm 20242024-05-10T12:16:54+00:00Đỗ Viết Hải Namdoviethainam.hmu@gmail.comNguyễn Thị Ngátngatnguyen.hmu@gmail.comBùi Huyền Trangbuihuyentrang291@gmail.comLê Vũ Hương Gianglegiang251203@gmail.comLê Thị Thanh Xuânlethithanhxuan@hmu.edu.vnNguyễn Văn Thànhthanhnv@hmu.edu.vn<p>Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên 161 nam sinh viên khối Y học Dự phòng Trường Đại học Y Hà Nội thông qua phỏng vấn trực tiếp bằng bộ câu hỏi được thiết kế sẵn nhằm mô tả kiến thức, thái độ về vi rút và các bệnh do HPV năm 2024 và một số yếu tố liên quan. Kết quả nghiên cứu cho thấy: Tỷ lệ nam sinh viên có kiến thức đạt về vi rút và các bệnh do HPV là 55,9%. Tỷ lệ nam sinh viên có thái độ tích cực về vi rút và các bệnh do HPV là 42,9%. Các yếu tố nhóm tuổi, khối học, kênh thông tin liên quan có ý nghĩa thống kê đến kiến thức của đối tượng nghiên cứu, trong khi đó nhóm tuổi và khối học liên quan có ý nghĩa thống kê đến thái độ của họ về vi rút và các bệnh do HPV. Như vậy, kiến thức và thái độ trên nhóm đối tượng sinh viên nam còn hạn chế, cần mở rộng, đẩy mạnh các chương trình truyền thông giáo dục sức khỏe nhằm nâng cao kiến thức vi rút và bệnh do HPV cho đối tượng nam giới.</p>2024-06-20T00:00:00+00:00Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Y họchttps://tapchinghiencuuyhoc.vn/index.php/tcncyh/article/view/240935. Thực trạng kém khoáng hoá men răng hàm răng cửa của học sinh Trường Trung học cơ sở Hoàng Long, Phú Xuyên, Hà Nội2024-05-13T10:04:58+00:00Lê HưngLehungPhD68@gmail.comNguyễn Thị Hạnhnguyenhanh.dhyhn@gmail.comPhùng Hữu Đạiphunghuudai133@gmail.comLê Linh Chilinhchi.le.2710@gmail.comĐỗ Thị Thu Hằngdohang00113@gmail.comNguyễn Ngọc Linh Chichiiinguyen1211@gmail.comHà Lan Hươnglanhuongrhm0915@gmail.comPhan Thị Bích Hạnhphanbichhanh91@gmail.com<p>Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 474 học sinh THCS Hoàng Long, Phú Xuyên, Hà Nội năm 2023, nhằm đánh giá tình trạng kém khoáng hoá men răng hàm răng cửa (MIH) của học sinh. Kết quả cho thấy tỉ lệ MIH là 10,8%, tổn thương chủ yếu ở răng hàm lớn thứ nhất hàm dưới, tổn thương kèm theo răng cửa chiếm tỉ lệ thấp. Tổn thương chủ yếu biểu hiện dưới dạng mờ đục, nhóm răng cửa với 99,7%, răng hàm lớn thứ nhất là 52,5%. Ở nhóm răng hàm lớn thứ nhất, phục hình không điển hình cũng chiếm tỉ lệ 20%. Tổn thương sâu răng và vỡ men răng chiếm tỉ lệ 12,1% và 13,2%. Tỉ lệ mất răng xuất hiện chủ yếu vùng răng hàm lớn thứ nhất với tỉ lệ 6,5% với R36 và 3,1% với R46. Mức độ lan toả của tổn thương phần lớn ít hơn 1/3 thân răng ở cả hai nhóm răng. Tỉ lệ mắc MIH không quá cao nhưng ảnh hưởng trực tiếp đến các răng hàm lớn thứ nhất với tỉ lệ biến chứng như vỡ men răng, sâu răng, thậm chí là mất răng. Như vậy, cần đẩy mạnh công tác dự phòng, khám và phát hiện sớm tổn thương sẽ giúp phòng ngừa các biến chứng. Trên lâm sàng cần lưu ý trong những trường hợp MIH không có tổn thương răng cửa kèm theo.</p>2024-06-20T00:00:00+00:00Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Y họchttps://tapchinghiencuuyhoc.vn/index.php/tcncyh/article/view/241436. Sự hài lòng của người bệnh ngoại trú khi sử dụng dịch vụ tại Trung tâm Chẩn đoán hình ảnh và Can thiệp điện quang Bệnh viện Đại học Y Hà Nội năm 20232024-05-13T02:00:26+00:00Bùi Thị Maimaibuigaymehoisuc@gmail.comNguyễn Thị Thúy Vânthuyvan160896@gmail.comNguyễn Thị Sơnntson@hmu.edu.vnLê Tuấn Linhlinhdhyhn2017@gmail.comNguyễn Quang Trungtrungnq0226@hmuh.vnNguyễn Ngọc Hảihaihan2708@gmail.com<p>Nghiên cứu mô tả cắt ngang thực hiện trên 1108 người bệnh trong tháng 10 và 11/2023 với mục tiêu mô tả sự hài lòng của người bệnh và một số yếu tố liên quan trên người bệnh ngoại trú khi sử dụng dịch vụ tại Trung tâm Chẩn đoán hình ảnh và Can thiệp điện quang - Bệnh viện Đại học Y Hà Nội năm 2023. Phương pháp thu thập số liệu trực tiếp bằng phỏng vấn bộ câu hỏi, dựa trên phiếu khảo sát ý kiến người bệnh ngoại trú, mẫu số 2/ Quyết định 3869/QĐ-BYT 2019 do Bộ Y tế ban hành. Phần lớn người bệnh hài lòng chung với chất lượng dịch vụ với 94,63%, điểm trung bình là 4,56 ± 0,58. Trong đó 91,43% người bệnh hài lòng về khả năng tiếp cận; 94,86% hài lòng về sự minh bạch thông tin và thủ tục khám; 94,39% hài lòng về cơ sở vật chất và phương tiện phục vụ; 97,74% hài lòng về thái độ ứng xử, năng lực chuyên môn của nhân viên y tế; 94,72% hài lòng về kết quả cung cấp dịch vụ. Nghiên cứu chỉ ra sự khác biệt có ý nghĩa thống kê sự hài lòng người bệnh với sử dụng giữa các loại dịch vụ chẩn đoán hình ảnh.</p>2024-06-20T00:00:00+00:00Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Y họchttps://tapchinghiencuuyhoc.vn/index.php/tcncyh/article/view/241837. Thực trạng hoạt động hội chẩn, hỗ trợ chuyên môn từ xa của các bác sĩ và những khó khăn trong quá trình thực hiện tại một số tỉnh2024-05-10T13:18:14+00:00Tạ Đăng Hưngtadanghung1884@gmail.comMai Xuân Thumaixuanthu.hspi@gmail.comNguyễn Thị Minh Hiếunguyenminhhieu@hspi.org.vnĐỗ Thị Thanh Toàndothithanhtoan@hmu.edu.vnLưu Ngọc Hoạtluungochoat@gmail.com<p>Nghiên cứu mô tả cắt ngang 217 bác sĩ tham gia hội chẩn từ xa từ tháng 9/2021 - 9/2022 với mục tiêu mô tả thực trạng hoạt động hội chẩn, hỗ trợ chuyên môn từ xa của bác sĩ tại 10 bệnh viện tuyến tỉnh/huyện của 03 tỉnh Sơn La, Quảng Ninh, Hà Tĩnh. Kết quả cho thấy: hội chẩn được thực hiện thường quy hàng tuần, hàng tháng hoặc đột xuất khi có ca cấp cứu hoặc có yêu cầu của bệnh viện tuyên trên. Hội chẩn, tư vấn khám chữa bệnh được các đối tượng nghiên cứu tham gia nhiều nhất với 81,6%. Ưu điểm được các bác sĩ nhận định: được cập nhật phương pháp điều trị (86,2%); giải quyết sớm, kịp thời ca khó (77%); giúp bệnh nhân yên tâm không vượt tuyến (62,7%). Khó khăn được đề cập đến nhiều nhất là chưa có quy định về trách nhiệm pháp lý của bác sĩ tuyến trên (54,5%), bác sĩ tuyến dưới khi có sự cố y khoa vai trò của các bên liên quan (38,3%); chưa được thanh toán bảo hiểm y tế cho hội chẩn từ xa (36,9%).</p>2024-06-20T00:00:00+00:00Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Y họchttps://tapchinghiencuuyhoc.vn/index.php/tcncyh/article/view/232738. Phân tích một loạt ca bệnh thai phụ có thai chết lưu liên quan tới đái tháo đường tại Khoa Nội tiết - Đái tháo đường, Bệnh viện Bạch Mai2024-04-25T01:57:35+00:00Nguyễn Đình Đứcducnguyendinh1812@gmail.comBùi Phương Thảobuithao0709@yahoo.comĐặng Bích Ngọcdangbichngoc2608@gmail.comNguyễn Thị Hươnghuyenhuongdr@gmail.comLưu Thị Thảoluuthao1212@gmail.comPhạm Thị Mỹ Thuầndrmythuanpham.hmu@gmail.com<p>Đái tháo đường có liên quan đến tăng nguy cơ thai chết lưu. Chúng tôi đã phân tích các đặc điểm của thai phụ có thai chết lưu liên quan tới đái tháo đường và tìm các yếu tố nguy cơ để dự phòng. Nghiên cứu hồi cứu, mô tả trên 20 thai phụ có thai chết lưu liên quan tới đái tháo đường từ 01/01/2020 đến 31/12/2023. Tuổi trung bình của thai phụ là 30,2 ± 7,4 với 70% dưới 35 tuổi. Tuổi thai trung bình khi thai chết lưu là 30,2 ± 6,2 tuần. 65% thai phụ chưa được chẩn đoán đái tháo đường trước khi mang thai. Nồng độ HbA1c trung bình là 9,0 ± 3,3% với 65% có HbA1c ≥ 6,5%. Đường máu trung bình lúc nhập viện là 21,8 ± 10,3 mmol/L. 85% thai phụ có thai chết lưu bị toan chuyển hóa với HCO<sub>3</sub> < 18 mEq/L, trong đó 65% bị toan mất bù với pH < 7,35. Kết quả cho thấy rằng thai phụ gặp các vấn đề phổ biến như đường máu cao không được kiểm soát, toan chuyển hóa, và thiếu sàng lọc đái tháo đường khi có thai chết lưu. Việc chẩn đoán và kiểm soát đường máu kịp thời là rất quan trọng để giảm nguy cơ thai chết lưu trong nhóm đối tượng này.</p>2024-06-20T00:00:00+00:00Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Y họchttps://tapchinghiencuuyhoc.vn/index.php/tcncyh/article/view/233939. Báo cáo ca lâm sàng sử dụng hai ống thông và dụng cụ bảo vệ huyết khối trong can thiệp tổn thương mạch vành phức tạp ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp có ST chênh lên2024-04-12T15:03:10+00:00Hoàng Văndonghmu@gmail.com<p style="font-weight: 400;">Việc kiểm soát huyết khối trong can thiệp mạch vành cho bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp có ST chênh lên đòi hỏi phải sử dụng linh hoạt và hợp lý các thiết bị khác nhau. Sử dụng hai ống thông (kỹ thuật ping-pong) đã được báo cáo trong việc kiểm soát các biến chứng cũng như can thiệp đối với các tổn thương chia nhánh. Ở đây, chúng tôi mô tả một trường hợp nam 77 tuổi nhập viện vì nhồi máu cơ tim cấp ST chênh lên có biến chứng sốc tim. Chụp động mạch vành cho thấy tắc nghẽn hoàn toàn cấp tính của động mạch liên thất trước do huyết khối, tắc nghẽn hoàn toàn mãn tính của động mạch vành phải, hẹp mức độ vừa đoạn xa thân chung động mạch vành trái và tổn thương ở lỗ của động mạch vành mũ. Hai stent phủ thuốc đã được triển khai thành công bằng kỹ thuật DK-Crush với sự hỗ trợ của thiết bị bảo vệ huyết khối đoạn xa và hai ống thông can thiệp. Trường hợp lâm sàng này minh họa rõ tầm quan trọng của việc sử dụng linh hoạt, phối hợp các dụng cụ khác nhau trong quá trình tái thông động mạch vành nhằm tối ưu hóa thủ thuật và đảm bảo an toàn cho người bệnh.</p>2024-06-20T00:00:00+00:00Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Y họchttps://tapchinghiencuuyhoc.vn/index.php/tcncyh/article/view/234540. Áp dụng tiêu chuẩn Yamaguchi trong chẩn đoán sớm viêm khớp thiếu niên tự phát thể hệ thống: Báo cáo ca bệnh2024-04-19T01:27:38+00:00Lê Khánh Minhlekhanhminhmj111@gmail.comNguyễn Thị Diệu Thúynguyendieuthuyhmu@gmail.comNguyễn Thị Thanh Maithanhmai@hmu.edu.vnNgô Thị Huyền Trangngotrang1711@gmail.comLương Thị Liênbslienhmuh@gmail.comTrần Duy Mạnhtranduymanhhmu@gmail.comPhạm Văn Dươngphamvanduong@hmu.edu.vnNguyễn Thị Dungnguyenthidung@hmu.edu.vnTrần Vân Anhvananhbiochem@gmail.comNguyễn Thị HàNguyenthiha_Nhi@hmu.edu.vn<p>Viêm khớp thiếu niên tự phát thể hệ thống (Systemic Juvenile Idiopathic Arthritis-sJIA) là một bệnh tự viêm hiếm gặp ở trẻ em, với các triệu chứng sốt, viêm khớp và ít nhất một trong các biểu hiện sau: phát ban, nổi hạch toàn thân, gan to và/hoặc lách to, và viêm thanh mạc. Tuy nhiên, các triệu chứng lâm sàng ban đầu thường không đặc hiệu, dễ nhầm lẫn với các tình trạng bệnh lý khác. Tiêu chuẩn chẩn đoán sJIA của Hiệp hội Thấp khớp học Quốc tế năm 2001 đang được sử dụng hiện nay còn nhiều hạn chế trong chẩn đoán các ca bệnh không điển hình do đó gần đây, tiêu chuẩn Yamaguchi đã được áp dụng để chẩn đoán sớm sJIA. Chúng tôi báo cáo một trường hợp bệnh nhân 14 tuổi với biểu hiện sốt kéo dài kèm tổn thương ban da điển hình. Bệnh nhân được loại trừ các căn nguyên gây sốt khác và đủ tiêu chuẩn chẩn đoán sJIA theo tiêu chuẩn Yamaguchi. Kết luận: Ca bệnh minh hoạ việc áp dụng tiêu chuẩn Yamaguchi trong chẩn đoán sớm các trường hợp sJIA, giúp điều trị kịp thời và ngăn chặn các biến chứng nguy hiểm tính mạng. </p>2024-06-20T00:00:00+00:00Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Y họchttps://tapchinghiencuuyhoc.vn/index.php/tcncyh/article/view/236441. Viêm ruột là biểu hiện ban đầu của Lupus ban đỏ hệ thống: Báo cáo ca bệnh2024-04-17T01:26:37+00:00Lương Thị Phượngluongphuong2233@gmail.comNguyễn Thị Bích Ngọcngocbichntmh@gmail.comNguyễn Thu Hươngnguyenthuhuongnhp@gmail.com<p>Viêm ruột lupus là một biến chứng nghiêm trọng, hiếm gặp của lupus ban đỏ hệ thống (SLE). Chẩn đoán rất khó khăn, đặc biệt khi không có các triệu chứng khác của SLE đang hoạt động. Chúng tôi báo cáo ca bệnh trẻ nữ 11 tuổi đến khám vì đau bụng, nôn nhiều, đại tiện phân lỏng 3 - 4 lần/ ngày, không có nhày máu, khám trẻ tỉnh, bụng mềm không có phản ứng thành bụng, X-quang bụng bình thường, siêu âm bụng có hình ảnh dày thành một số quai ruột, ít dịch. Sau 1 tuần, trẻ nôn nhiều hơn, nôn dịch xanh, vàng, đại tiện phân tóe nước có ít nhày không máu 12 - 15 lần/ ngày và sốt. Chụp cắt lớp ổ bụng có dày thành lan tỏa ruột non và đại tràng, nhiều dịch tự do, bạch cầu phân (+), giảm bạch cầu lympho máu, CRP bình thường, C3, C4 giảm mạnh, ANA (+), kháng thể kháng dsDNA tăng, có protein niệu. Trẻ được chẩn đoán viêm ruột/viêm thận lupus, đáp ứng tốt với corticoid sau 2 tuần. Ca bệnh muốn nhấn mạnh đến đặc điểm lâm sàng viêm ruột lupus, chẩn đoán và điều trị.</p>2024-06-20T00:00:00+00:00Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Y họchttps://tapchinghiencuuyhoc.vn/index.php/tcncyh/article/view/237442. Sử dụng đoạn mạch máu tự thân của người hiến tạo hình tĩnh mạch cửa trong ghép gan ở trẻ em: Báo cáo hai trường hợp2024-04-14T08:06:06+00:00Phan Hồng Longhonglong.phan14091993@gmail.comPhạm Duy Hiềnduyhien1972@yahoo.comVũ Mạnh Hoàndr.hoan682@gmail.comTrần Đức Tâmtrantam86@gmail.comNguyễn Phạm Anh Hoadranhhoa@gmail.comPhạm Thị Hải YếnPhamhaiyen1209@gmail.com<p>Ghép gan cho trẻ em là phương pháp điều trị cuối cùng có hiệu quả cho trẻ em xơ gan, bệnh gan giai đoạn cuối, u gan và một số bệnh lý chuyển hóa. Đặc điểm tĩnh mạch cửa ở trẻ em xơ gan thường nhỏ và xơ cứng do hậu quả của tăng áp lực tĩnh mạch cửa kéo dài, lưu lượng máu qua tĩnh mạch cửa thấp hoặc những can thiệp phẫu thuật trước đó. Chúng tôi báo cáo hồi cứu hai trường hợp người bệnh 16 tháng và người bệnh 43 tháng với chẩn đoán: Xơ gan, bệnh gan giai đoạn cuối/ Teo mật đã phẫu thuật Kasai có hẹp tĩnh mạch cửa được phẫu thuật ghép gan sử dụng mảnh ghép gan trái từ người cho sống và thay thế tĩnh mạch cửa bằng đoạn tĩnh mạch chậu ngoài của người hiến. Kết quả sau mổ: cả 2 người bệnh diễn biến ổn định, tốc độ dòng chảy qua tĩnh mạch cửa bình thường, không phát hiện hẹp, tắc hay huyết khối. Theo dõi xa 01 người bệnh tháng thứ 52 và 01 người bệnh tháng thứ 7, lâm sàng ổn định, siêu âm doppler tĩnh mạch cửa dòng chảy trong giới hạn bình thường, không huyết khối. Đồng thời tìm hiểu y văn về chỉ định, mô tả đặc điểm kỹ thuật và kết quả thay thế tĩnh mạch cửa trong ghép gan từ người cho sống cho trẻ em. Việc thay thế tĩnh mạch cửa ở trẻ em có hẹp tĩnh mạch cửa bằng đoạn mạch tự thân của người hiến có thể thực hiện an toàn với kết quả ban đầu tốt.</p>2024-06-20T00:00:00+00:00Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Y họchttps://tapchinghiencuuyhoc.vn/index.php/tcncyh/article/view/240343. Ghép thận cha-con ở trẻ nam mắc hội chứng alport liên kết X với đột biến COL4A5: Báo cáo ca bệnh2024-05-05T08:46:43+00:00Lương Thị Phượngluongphuong2233@gmail.comNguyễn Thùy Linhtruongthuylinh27@gmail.comThái Thiên Namthiennam71@gmail.comNguyễn Thu Hươngnguyenthuhuongnhp@gmail.com<p>Hội chứng Alport là bệnh thận di truyền do đột biến gen collagen loại IV, thường dẫn đến bệnh thận giai đoạn cuối. Các báo cáo trên thế giới cho thấy ghép thận ở bệnh nhân hội chứng Alport thường có kết quả rất tốt. Chúng tôi báo ca bệnh trẻ nam 8 tuổi được chẩn đoán viêm cầu thận - hội chứng Alport có đột biến gen <em>COL4A5</em> liên kết X, tiến triển đến bệnh thận mạn giai đoạn cuối sau 5 năm. Trẻ được điều trị thẩm phân phúc mạc trong 6 tháng. Sau đó, chúng tôi tiến hành ghép thận cho trẻ với người cho sống là bố của trẻ. Chức năng thận ghép hồi phục hoàn toàn sau mổ 7 ngày. Hiện tại, sau ghép 5 tháng, trẻ tăng 7kg, huyết áp bình thường, ure và creatinin máu bình thường, không có protein niệu và hồng cầu niệu. Ca bệnh muốn nhấn mạnh đến tầm quan trọng kết hợp khám lâm sàng với khai thác tiền sử, bệnh sử và xét nghiệm gen để chẩn đoán hội chứng Alport xem xét ghép thận khi trẻ tiến triển đến bệnh thận giai đoạn cuối. </p>2024-06-20T00:00:00+00:00Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Y họchttps://tapchinghiencuuyhoc.vn/index.php/tcncyh/article/view/241644. Nghiên cứu tổng quan hệ thống và phân tích gộp về độc tính của thuốc lá nung nóng so với thuốc lá thông thường2024-05-07T09:59:04+00:00Trần Khánh Toàntrankhanhtoan@hmu.edu.vnĐinh Huỳnh Linhdinhhuynhlinh@gmail.comHồ Thị Kim Thanhhokimthanh@hmu.edu.vnPhạm Thị Ngọc Bíchngocbichyhgd@hmu.edu.vnPhạm Quỳnh Trangquynhtrang23hmu@gmail.com<p>Độc tính của thuốc lá nung nóng là chủ đề đang được quan tâm trong thời gian gần đây. Nghiên cứu này nhằm mục tiêu tổng hợp kết quả các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng đánh giá độc tính của thuốc lá nung nóng so với thuốc lá thông thường dựa trên các chỉ điểm sinh học phơi nhiễm. Mười bài báo gốc đã được tuyển chọn từ 187 bài báo theo tiêu chuẩn thuộc 3 cơ sở dữ liệu điện tử: PubMed, Sciencedirect và ProQuest từ 2010 - 2023 theo hướng dẫn PRISMA 2020. Kết quả cho thấy nồng độ của 14 chỉ điểm sinh học phơi nhiễm quan trọng (1-OH, 2-AN, 3-HMPMA, 3-HPMA, 4-ABP, CEMA, CoHb, HEMA, MHBMA, NNAL, NNN, S-PMA, TNeq, và O-Tol) đều thấp hơn có ý nghĩa thống kê ở những người hút thuốc lá nung nóng so với người hút thuốc lá thông thường; mức giảm cao nhất với TNeq (68,6%) và thấp nhất với CEMA (13,4%). Độc tính của thuốc lá nung nóng, đánh giá thông qua các chỉ điểm sinh học phơi nhiễm, giảm đáng kể so với thuốc lá thông thường. Tuy nhiên, vẫn cần có thêm các nghiên cứu độc lập, toàn diện hơn nữa về tính an toàn của thuốc lá nung nóng.</p>2024-06-20T00:00:00+00:00Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Y họchttps://tapchinghiencuuyhoc.vn/index.php/tcncyh/article/view/249145. Tính an toàn và kết quả tức thời của kỹ thuật triệt đốt bằng nhiệt lạnh để cô lập tĩnh mạch phổi trong điều trị rung nhĩ kịch phát2024-06-04T03:19:06+00:00Phan Đình Phongphong.vtm@gmail.comĐỗ Doãn LợiDoDoanLoi@gmail.comPhạm Minh Tuấnngminhtuan82@yahoo.comTrần Song Giangtrangiang1972@yahoo.comPhạm Trần Linhptlinhmd@gmail.comTrần Tuấn Việttrantuanviet87@gmail.comLê Võ Kiênlevokien@gmail.comĐặng Việt Phongvipho.thita@gmail.comNguyễn Duy Linhlinhmoc2010@gmail.com<p>Nhằm bước đầu đánh giá tính an toàn và kết quả cô lập tĩnh mạch phổi của kĩ thuật triệt đốt bằng nhiệt lạnh trong khởi trị rung nhĩ kịch phát, chúng tôi tiến hành thủ thuật trên 15 người bệnh. Tính an toàn được xác định dựa trên sự xuất hiện của các biến cố bất lợi; kết quả thủ thuật được đánh giá dựa trên việc thành công cô lập tĩnh mạch phổi. Thời gian mắc rung nhĩ trung bình là 10 ± 12 tháng, với tần suất cơn rung nhĩ trung bình là 6,1 ± 7,1 cơn/tháng. Tất cả người bệnh đều có nguy cơ chảy máu thấp, hầu hết có nguy cơ đột quỵ não (73%). Tất cả các người bệnh đều được cô lập hoàn toàn các tĩnh mạch phổi, với thời gian chiếu tia và tổng thời gian triệt đốt lần lượt là 14 ± 8 phút và 125 ± 32 phút. Không ghi nhận biến chứng liên quan đến thủ thuật. Cần tiếp tục mở rộng phạm vi nghiên cứu với cỡ mẫu lớn hơn và thời gian theo dõi kéo dài, để từ đó có được đánh giá một cách chính xác về hiệu quả giảm tái phát rối loạn nhịp nhĩ.</p>2024-06-20T00:00:00+00:00Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Y họchttps://tapchinghiencuuyhoc.vn/index.php/tcncyh/article/view/251946. Kết quả điều trị ở người bệnh mắc COVID-19 đồng nhiễm HIV/AIDS tại Bệnh viện Bệnh nhiệt đới Trung ương (1/2022 - 6/2023)2024-06-10T02:41:11+00:00Trần Văn Gianggiangminh08@gmail.comNgô Thị Mai Khanhmaikhanhtm2024@gmail.com<p>Nghiên cứu được thực hiện nhằm mô tả kết quả điều trị người bệnh mắc COVID-19 đồng nhiễm HIV/AIDS tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương, từ 1/2022 đến 6/2023. Có 97 người bệnh đủ tiêu chuẩn vào nghiên cứu. Kết quả: Tỷ lệ người bệnh suy giảm miễn dịch nặng (CD4 < 200 tế bào/mm<sup>3</sup>) là 81,0%, người bệnh suy giảm miễn dịch nhẹ (CD4 từ 200 - 499) là 15,8%, không suy giảm miễn dịch (CD4 ≥ 500) là 3,2%. Kết quả điều trị khỏi ra viện chiếm 40,2%, đỡ chuyển tuyến chiếm 41,2%. Có 15,5% người bệnh chuyển nặng, xin về và 3,1% tử vong. Thời gian điều trị trung bình là 18 ± 13,1 ngày.</p>2024-06-20T00:00:00+00:00Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Y họchttps://tapchinghiencuuyhoc.vn/index.php/tcncyh/article/view/245647. Điều trị tụt huyết áp bằng ephedrin và phenylephrin sau gây tê tủy sống để phẫu thuật lấy thai2024-05-27T06:34:59+00:00 Huỳnh Thị Ngọc Hiềnhtnhien@dhktyduocdn.edu.vnTrần Tiến ĐạtDanthu0207@gmail.comPhan Thị Thu Trâmptttram@dhktyduocdn.edu.vnNguyễn Thị Ngọc Túntntu@dhktyduocdn.edu.vnHoàng Lê Phi Báchhlpbach@dhktyduocdn.edu.vn<p>Nghiên cứu của chúng tôi so sánh hiệu quả dự phòng và điều trị tụt huyết áp bằng ephedrin và phenylephrin tiêm tĩnh mạch sau gây tê tủy sống trong phẫu thuật lấy thai. 100 sản phụ được chỉ định phẫu thuật lấy thai được bốc thăm ngẫu nhiên thành 2 nhóm được dự phòng tụt huyết áp ngay sau gây tê tủy sống và điều trị khi có tụt huyết áp bằng ephedrin 5mg và phenylephrin 50µg. Các chỉ số huyết áp tâm thu, huyết áp tâm trương, huyết áp trung bình và nhịp tim được ghi nhận tại các thời điểm từ khi bắt đầu tiêm thuốc đến sau khi kết thúc phẫu thuật được 2 giờ. Kết quả nghiên cứu cho thấy các chỉ số huyết áp ghi nhận có sự khác biệt đáng kể từ T2,5 đến T27,5 ở cả hai nhóm với kết quả tích cực hơn của nhóm dùng phenylephrin. Nghiên cứu này cho thấy phenylephrin cho tác dụng dự phòng và điều trị tụt huyết áp ưu thế hơn so với ephedrin trong gây tê tủy sống phẫu thuật lấy thai.</p>2024-06-20T00:00:00+00:00Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Y họchttps://tapchinghiencuuyhoc.vn/index.php/tcncyh/article/view/251848. Đặc điểm kháng kháng sinh của các vi khuẩn gây nhiễm khuẩn huyết thường gặp tại Bệnh viện Bệnh nhiệt đới Trung ương năm 2022 - 20232024-06-13T01:43:36+00:00Trần Văn Gianggiangminh08@gmail.comNguyễn Quốc Phươngquocphuonghmu@gmail.com<p>Nghiên cứu được thực hiện nhằm mô tả đặc điểm kháng kháng sinh của các vi khuẩn gây nhiễm khuẩn huyết thường gặp tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương, từ 1/2022 đến 12/2023. Có 117 bệnh nhân được chẩn đoán là nhiễm khuẩn huyết và xác định được căn nguyên vi khuẩn trong thời gian nghiên cứu. Kết quả: tuổi trung bình của bệnh nhân trong nghiên cứu là 56,82 ± 15,92 , nam là 66,7%. Đường vào chủ yếu là đường hô hấp là 22,2%, da/mô mềm là 10,3%, tiêu hóa là 9,4%, tiết niệu là 8,5%. Nhiễm khuẩn huyết mắc phải trong cộng đồng là 61,6 %, vi khuẩn Gram dương chiếm 53,8%. Ba căn nguyên vi khuẩn thường gặp gây nhiễm khuẩn huyết là <em>E. coli</em> (26,5%); <em>S. aureus</em> (23,1%), <em>K. pneumoniae</em> (12%). Kết quả kháng sinh đồ cho thấy <em>E. coli</em> kháng các kháng sinh trong nhóm Cephalosporin từ 20 % - 50%, kháng các kháng sinh trong nhóm Quinolon từ 25% - 46,9%, kháng amikacin 7,2%, nhạy 100% với các kháng sinh nhóm carbapenem.<em> K. pneumoniae</em> kháng Ampicillin là 100%, kháng các kháng sinh nhóm carbapenem từ 6,7 % - 13,3%, kháng các kháng sinh trong nhóm cephalosporin từ 14,3% - 27,3Trường Đại học Y Hà Nội%, kháng ciprofloxacin 40%, kháng amikacin 7,2%. <em>S. aureus</em>: MRSA là 82,6%, VRA là 3%, kháng 100% với Penicillin, kháng clindamycin 87,1%. </p>2024-06-20T00:00:00+00:00Copyright (c) 2024 Tạp chí Nghiên cứu Y học