Các thể dị ứng thuốc chậm và một số yếu tố liên quan ở bệnh nhân nội trú tại Bệnh viện Da liễu Trung ương
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Nghiên cứu mô tả cắt ngang, hồi cứu với mục tiêu phân tích mô hình, một số yếu tố liên quan ở bệnh nhân dị ứng thuốc chậm tại Bệnh viện Da liễu Trung ương từ tháng 01/2019 đến tháng 12/2023. Kết quả trên 266 hồ sơ bệnh án cho thấy dị ứng thuốc chậm có biểu hiện đa dạng, từ nhẹ đến nặng, có thể gặp ở mọi lứa tuổi, nhóm người cao tuổi chiếm tỷ lệ cao ở các thể bệnh nặng, nam và nữ có tỷ lệ tương đương. SJS với 26,7% và TEN với 22,2% là 2 thể dị ứng thuốc chậm hay gặp nhất, ít nhất là overlap SJS/TEN với 3 trường hợp (1,1%). Đường dùng chủ yếu gây dị ứng thuốc chậm là đường uống. Đường dùng thuốc không ảnh hưởng đến thời gian khởi phát bệnh (p > 0,05). Có nhiều loại thuốc có thể gây dị ứng chậm, hay gặp nhất là nhóm kháng sinh và nhóm thuốc đông y, thuốc nam. Một nửa số ca dị ứng thuốc chậm có bệnh lý nền kèm theo.
Chi tiết bài viết
Từ khóa
dị ứng thuốc chậm, phản ứng có hại của thuốc trên da
Tài liệu tham khảo
2. Yx T, Sa W. Severe adverse drug reactions. Clin Med Lond Engl. 2016;16(1). doi:10.7861/clinmedicine.16-1-79
3. Suástegui-Rodríguez I, Campos-Jiménez KI, Domínguez-Cherit J, et al. Adverse cutaneous reactions to drugs. Rev Medica Inst Mex Seguro Soc. 2018;56(1):64-70.
4. Gomes ESR, Marques ML, Regateiro FS. Epidemiology and Risk Factors for Severe Delayed Drug Hypersensitivity Reactions. Curr Pharm Des. 2019;25(36):3799-3812. doi:10.2174/1381612825666191105115346
5. Tissot M, Valnet-Rabier MB, Stalder T, et al. Epidemiology and economic burden of “serious” adverse drug reactions: Real-world evidence research based on pharmacovigilance data. Therapies. 2022;77(3):291-300. doi:10.1016/j.therap.2021.12.007
6. Trần Thị Phương Chi, Hoàng Thị Lâm. Nghiên cứu tình trạng dị ứng thuốc tại bệnh viện Đà Nẵng. Tạp chí Y học Việt Nam. 2022;521(Số 2):307.
7. Nguyễn Văn Đoàn, Nguyễn Năng An. Kết quả nghiên cứu dị ứng thuốc tại Khoa Dị ứng - MDLS Bệnh viện Bạch Mai (1981-2005). Tạp chí Y học lâm sàng Bệnh viện Bạch Mai. 2006;Số đặc san:79-89.
8. Lekshmipriya K, Pradeesh A, Vasudevan B, et al. An observational study of severe cutaneous adverse reactions at a tertiary care teaching hospital. Med J Armed Forces India. 2023;79(Suppl 1):S209-S216. doi:10.1016/j.mjafi.2022.06.011
9. Deng M, Su Y, Wu R, et al. Clinical features and prognostic factors of severe cutaneous adverse drug reactions: A single-center retrospective study of 209 cases in China. Int Immunopharmacol. 2023;114:109530. doi:10.1016/j.intimp.2022.109530
10. AlJasser MI. Severe Cutaneous Adverse Drug Reactions at a Tertiary Care Center in Saudi Arabia. Dermatol Res Pract. 2023;2023:8928198. doi:10.1155/2023/8928198
11. Sinha S, Kar C, Das S, et al. A Clinico-Epidemiological Study of Cutaneous Adverse Drug Reactions in a Tertiary Care Centre of Eastern India. Indian J Dermatol. 2024;69(1):106. doi:10.4103/ijd.ijd_944_20
12. Zheng L, Jin HB, Guan YY, et al. Pharmacovigilance of cutaneous adverse drug reactions in associations with drugs and medical conditions: a retrospective study of hospitalized patients. BMC Pharmacol Toxicol. 2022;23(1):62. doi:10.1186/s40360-022-00603-4
13. Zhao J, Hu L, Zhang L, et al. Causative drugs for drug-induced cutaneous reactions in central China: a 608-case analysis. An Bras Dermatol. 2019;94(6):664-670. doi:10.1016/j.abd.2019.01.007
14. Sharma VK, Sethuraman G, Kumar B. Cutaneous adverse drug reactions: clinical pattern and causative agents--a 6 year series from Chandigarh, India. J Postgrad Med. 2001;47(2):95-99.